Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2022

Sữa yến mạch (oat milk) đang trở thành cơn sốt thực phẩm mới

Từ chỗ chỉ là sản phẩm thay thế sữa động vật, chủ yếu là sữa bò, sữa yến mạch (oat milk) đang trở thành cơn sốt thực phẩm mới nhất tại các nước phương Tây trong mấy năm gần đây, đúng vào lúc các mối quan tâm về môi trường và sức khỏe đang khiến bơ, sữa, phô mai động vật trở nên kém hấp dẫn hơn bao giờ hết.

Xét lại khẩu phần ăn


Sữa và chế phẩm từ sữa từ lâu đã được coi là một phần không thể thiếu trong chế độ ăn tại các nước Âu Mỹ, nhưng vị trí vững chãi của các sản phẩm này đang lung lay trong mấy năm trở lại đây khi các báo cáo về tác động môi trường của ngành công nghiệp sữa bò cũng như sự lên ngôi của lối sống thuần chay, chế độ ăn lành (eat clean) kiêng sữa, đang khiến người tiêu dùng quay lưng lại với nguồn protein quen thuộc này. Sau hơn hai thập niên từ 1996 - 2018, lượng tiêu thụ sữa trung bình của người tiêu dùng Mỹ đã giảm hơn một phần ba, từ khoảng 110 lít xuống chỉ còn 77 lít/năm.

Nhóm khách hàng trẻ tuổi thế hệ Millennials (tuổi 26 - 40) và Gen Z (dưới 25), những người đặt mối quan tâm về môi trường và đạo đức tiêu dùng cao hơn hẳn thế hệ cha mẹ mình, đang là người dẫn đầu trào lưu quay lưng với sữa động vật.

“Tôi cắt sữa khỏi khẩu phần ăn của mình vì lý do đạo đức” - Irene Meier, một công dân Anh trẻ tuổi, trả lời Đài BBC, ám chỉ chuyện các nông trại ép bò cái thụ thai liên tục để kích thích tuyến sữa hay chuyện giết bê đực ngay từ khi mới chào đời - những thực hành bị coi là “phi nhân tính” đang bị người tiêu dùng chỉ trích kịch liệt mấy năm gần đây.

Với sự “rớt đài” của sữa động vật, các sản phẩm sữa thực vật như sữa hạnh nhân, đậu nành, dừa, yến mạch… đang được coi là phương án thân thiện môi trường và an toàn với sức khỏe, được khách hàng trẻ ngày một yêu thích. Theo thống kê của Nielsen, doanh thu các sản phẩm sữa thực vật tại Mỹ từ tháng 7-2020 đến tháng 7-2021 đạt 2,4 tỉ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước, đồng thời chiếm 15,5% tổng lượng sữa bán ra trên toàn nước Mỹ.

Theo báo cáo hồi tháng 4-2021 của Hiệp hội Thực phẩm nguồn gốc thực vật (PBFA), sữa hạnh nhân vẫn chiếm lĩnh thị trường sữa thực vật ở Mỹ với 2/3 thị phần, nhưng đáng chú ý nhất là sự đổi ngôi ở vị trí thứ 2 - sữa yến mạch “vượt mặt” sữa đậu nành, với doanh số tăng hơn gấp 3 trong năm 2020 và tăng trưởng 25 lần kể từ 2018.

Công thức Thụy Điển


Muốn tìm hiểu lý do sữa yến mạch đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng đến vậy, không thể không nhắc đến người dẫn đầu trào lưu - không phải các ông lớn đa quốc gia như Nestle hay Unilever, mà là một doanh nghiệp khiêm nhường đến từ Thụy Điển mang tên Oatly.

Khởi đầu là sản phẩm “nhà làm” do Rickard Öste sáng chế vào năm 1994 cho người không uống được sữa động vật do chứng bất dung nạp lactose, Oatly vẫn chỉ là một sản phẩm nội địa Thụy Điển cho đến năm 2012, khi Toni Petersson, một nhân vật có đầu óc marketing khác người, vạch ra một chiến lược kinh doanh mới sau khi được mời về điều hành công ty.

Dưới con mắt của Peterson, thân thiện với môi trường là một lợi thế lớn của Oatly. Theo trang Quartz, sản xuất sữa yến mạch tốn ít đất đai hơn 11 lần, xả thải nhà kính ít hơn 4 lần và dùng ít nước hơn 13 lần so với sữa bò. Lợi thế này liên tục được Oatly nhắc lại trong các chiến dịch quảng cáo hòng định vị sản phẩm như một phương án giúp khách hàng thoát khỏi mặc cảm “gián tiếp phá hoại môi trường” khi tiêu thụ sữa bò.

Thay vì đổ tiền vào biển quảng cáo đắt tiền và mua sóng truyền hình khung giờ vàng, Oatly tiếp cận thị trường Mỹ bằng những đoạn quảng cáo hài hước được sơn lên tường (“Bạn đang đọc cái này ư? Vậy là chúng tôi thành công rồi đấy!” - một đoạn quảng cáo viết). Không cần kể lể nhiều về chất lượng sản phẩm, Oatly mời các nhân viên pha chế tại các quán cà phê nhỏ dùng thử miễn phí, khuyến khích họ dùng Oatly trong đồ uống cho khách, từ đó tạo hiệu ứng truyền miệng với tập khách hàng trẻ, sành điệu, quan tâm đến môi trường.

Không xuất hiện bóng bẩy, Oatly luôn biết cách làm cho mình độc đáo và khác người nhất có thể. Bao bì sản phẩm không có hình giọt sữa sóng sánh, thay vào đó là những con chữ trông như được cắt dán bằng tay ở một xưởng thủ công nhỏ nào đó.

Mới đây, công ty này bị “ném đá” tơi bời tại Mỹ khi chiếu đoạn clip CEO Toni Petersson ngồi giữa cánh đồng yến mạch đệm đàn và hát nghêu ngao lệch tông trong đoạn quảng cáo phát giữa giờ tại Super Bowl 2021, trận tranh chức vô địch thường niên của Liên đoàn Bóng bầu dục Mỹ, cũng là sự kiện để các nhãn hàng tiếp cận hàng trăm triệu người dùng tiềm năng, với giá hàng triệu USD cho 30 giây xuất hiện. Dù nghe ngớ ngẩn nhưng lời bài hát “Giống sữa nhưng dành cho người… Quào, không có bò” đã nhanh chóng lan truyền trên mạng, thậm chí còn được yêu thích ngược vì tạo cảm giác chân thật, không màu mè - cũng chính là hình ảnh mà Oatly đang theo đuổi.

Dù vậy, marketing tốt thôi chắc chắn là chưa đủ. Theo Barb Stuckey, chuyên gia tư vấn thị trường thực phẩm tại California, sự áp đảo của Oatly đến từ chất lượng vượt trội so với các sản phẩm sữa thay thế khác đã có trên thị trường. “Rất nhiều sản phẩm sữa thực vật bị loãng và nhạt, vì vậy các nhà sản xuất phải thêm đường và phụ gia để tạo độ sánh. Các sản phẩm này cũng có ít hàm lượng dinh dưỡng, protein và vitamin” - Stuckey cho biết. Trong khi đó, nhờ có công thức độc quyền của Oste, Oatly đã tìm được cách hòa tan chất xơ trong yến mạch, tạo ra thành phẩm sánh đặc như sữa động vật mà không cần thêm đường.

Với lợi thế công nghệ, cùng với sự nổi loạn hiếm thấy trên thị trường, Oatly đã thuyết phục hoàn toàn tập khách hàng Millennials và Gen Z tại Mỹ, biến sữa yến mạch từ chỗ ít người biết trở thành một món tiêu dùng sành điệu. Doanh thu của công ty trong năm 2020 đạt 421 triệu đôla, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, giúp Oatly trở thành công ty sữa yến mạch lớn nhất hành tinh ở thời điểm hiện tại.

“Cuộc chiến sữa” chỉ mới bắt đầu


Sự tăng trưởng chóng mặt của sữa yến mạch và sữa thực vật nói chung đang trở thành mối đe dọa ngày một hiển hiện với các tập đoàn sữa truyền thống, buộc họ phải viện đến nhiều công cụ - trong đó có luật pháp.

Các nhóm vận động hành lang đại diện cho quyền lợi ngành sữa động vật Mỹ đã liên tục vận động Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cấm các công ty sữa thực vật gọi sản phẩm của mình là “sữa” với lý do tránh gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Nỗ lực này hiện nay vẫn chưa thành công, tuy nhiên Liên minh châu Âu đã cấm các sản phẩm thay thế in những từ như “milk” (sữa) hoặc “yoghurt” (sữa chua) trên bao bì từ năm 2017.

Cuộc chiến này đặc biệt căng thẳng ở Thụy Điển - quê nhà Oatly, nơi tập đoàn sữa truyền thống Arla thực hiện một loạt quảng cáo ngắn trên truyền hình như để đáp trả cách truyền thông gây hấn của phe sữa yến mạch. Dựng cảnh các nhân vật uống sữa thay thế với tâm trạng ủ dột, mỗi đoạn quảng cáo đều kết thúc bằng câu “Chỉ có sữa thật mới có vị giống sữa.”

Mặc dù vậy, việc khẩu vị người tiêu dùng nghiên về phía sữa thực vật là không thể chối cãi, và nhiều hãng sữa động vật khác đã chọn xuôi theo dòng để bắt kịp xu hướng. Mới đây, Chobani - hãng thực phẩm đã khơi mào cơn sốt sữa chua Hy Lạp - vừa ra mắt dòng sản phẩm sữa yến mạch, sữa chua yến mạch và cà phê sữa yến mạch để giành phần trong thị trường đang lên. HP Hood, một hãng sữa lâu đời tại Mỹ, cũng đã ra mắt dòng sữa yến mạch Planet Oat, trong khi Nestle cũng đã tham gia cuộc chơi với sản phẩm sữa yến mạch vị socola GoodNes.

Bên cạnh đó, hàng loạt các công ty start-up cũng đã và đang ra mắt thương hiệu sữa yến mạch, khiến ngôi đầu thị trường của Oatly gặp phải vô số cạnh tranh. Tuy vậy, CEO của Oatly vẫn tỏ ra khá lạc quan về sự khác biệt của công ty trong mắt người tiêu dùng. “Chúng tôi chỉ muốn làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Chúng tôi không tạo ra một sản phẩm để chạy theo cơ hội thị trường. Đó là một tư duy kinh doanh hoàn toàn khác, và người tiêu dùng hoàn toàn có thể cảm nhận sự khác biệt” - Petersson chia sẻ với Quartz.

Đứng trước lựa chọn giữa sữa bò và sữa thực vật, người tiêu dùng có khá nhiều điều phải cân nhắc. Hàm lượng protein trong một cốc sữa bò là khoảng 8g, nhiều hơn tất thảy các loại sữa hạt. Sữa bò cũng có hàm lượng canxi và vitamin B6 và B12 tự nhiên - thứ mà hầu hết sữa hạt không có. Đổi lại, sữa bò không chứa chất xơ như sữa hạt và có thể gây vấn đề tiêu hóa cho ⅔ dân số thế giới do có chứa đường lactose.

Về khía cạnh môi trường, sữa bò bị áp đảo hoàn toàn: Ngành công nghiệp sữa đóng góp tới 4% tổng lượng khí thải toàn cầu, trong khi sữa hạt dùng ít tài nguyên đất đai, nước và xả thải ít hơn nhiều. Điều đó không có nghĩa là quy trình sản xuất sữa hạt hoàn toàn vô hại: Một điều tra của tờ The Guardian cho thấy nhu cầu sữa hạnh nhân đã đóng góp vào sự cố chết hàng loạt của các bầy ong nuôi tại Mỹ năm 2020, do các trang trại hạnh nhân đã vắt kiệt sức các bầy ong để thụ phấn đồng thời khiến chúng phải tiếp xúc với hóa chất canh tác thường xuyên.

Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

Ăn chay là xu hướng đang được ưa chuộng tại châu Âu

Các tập đoàn công nghiệp thực phẩm và các siêu thị EU đang chuyển dịch nhanh chóng nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm không dùng nguyên liệu từ động vật.

Thị trường thực phẩm chay tại châu Âu phát triển nhanh


Một số nghiên cứu thị trường cho rằng thực phẩm chay có thể sẽ không chỉ là một xu hướng nhất thời mà sẽ trở thành một mảng thị trường ổn định lâu dài, tuy rằng khó có thể lấn át nổi các sản phẩm từ thịt động vật.

Doanh số thực phẩm chay tại Pháp đã tăng trưởng rất ấn tượng trong năm 2018, trở thành hiện tượng trên thị trường thực phẩm.

Tờ Le Telegramme của Pháp trích một nghiên cứu cho biết lượng thực phẩm có nguồn gốc chỉ từ thực vật đã tăng tới 24% trong năm 2018, mang lại cho các siêu thị của Pháp doanh thu khoảng 380 triệu EUR. Vẫn nghiên cứu này dự đoán trong giai đoạn từ nay đến năm 2021, mức tăng trưởng hàng năm sẽ là khoảng 17%, và doanh thu của các siêu thị từ các sản phẩm này sẽ là khoảng 600 triệu EUR trong 3 năm tới.

Ăn chay là xu hướng đang được ưa chuộng. Ngày càng có nhiều quán ăn thuần chay hoặc bổ sung món chay vào thực đơn, có nhiều siêu thị nhỏ chuyên bán đồ chay và hầu như siêu thị lớn nào cũng có gian hàng đồ chay. Tờ Tageblatt ra tại Luxembourg cho rằng nguyên nhân là những vụ bê bối liên quan đến thực phẩm đều chỉ dính dáng đến thịt động vật và tác động của các phong trào bảo vệ động vật và môi trường đã thúc đẩy người Pháp quan tâm hơn tới nguồn đạm thực vật.

Các tập đoàn công nghiệp thực phẩm dĩ nhiên không bỏ qua xu hướng này, hầu như tất cả đều đang cố gắng nghĩ ra những sản phẩm mới không sử dụng nguyên liệu từ động vật. Tờ Les Echos của Pháp cho biết hãng Danone của nước này, đứng đầu thế giới về sữa chua, đã bắt đầu đưa ra các sản phẩm không chứa sữa động vật.

Tập đoàn Unilever của Hà Lan cũng đã có 700 sản phẩm chay. Hãng Nestle của Thụy Sĩ dự đoán ăn chay không chỉ là một xu hướng nhất thời và đang có kế hoạch đưa doanh số đồ chay của hãng lên mức 1 tỷ USD trong 10 năm tới. Bài báo nhấn mạnh chi tiết là hãng này tập trung ưu tiên nghiên cứu dòng thực phẩm chay dành cho trẻ em nhằm hướng dẫn khẩu vị ngay từ khi khách hàng còn nhỏ, sau này lớn lên sẽ quan tâm nhiều hơn tới sản phẩm chay của Nestle.

Tuy nhiên, nhiều tờ báo châu Âu lưu ý rằng dù thị phần thực phẩm chay có tăng trưởng nhanh thì vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong thị trường thực phẩm nói chung. Tờ Cinco Dias ra tại Tây Ban Nha viết: "Mặc dù các siêu thị ở Anh dành nhiều không gian hơn cho các sản phẩm chay thì phần đóng góp của các sản phẩm này vào tổng doanh thu vẫn chỉ ở mức tối thiểu".

Đúng là ngày càng có nhiều người quan tâm đến thực phẩm chay, nhưng theo bài báo thì cùng lúc đó, tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc động vật trên toàn thế giới cũng vẫn tiếp tục tăng.

Theo Hanoi Morning Post

Thứ Tư, 16 tháng 1, 2019

Đông Nam Á đang là điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất hiện nay

Vượt qua Trung Quốc, Đông Nam Á đang là điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất hiện nay. Đó là khảo sát vừa được ghi nhận tại Diễn đàn Tài chính châu Á 2019 đang diễn ra tại Hong Kong (Trung Quốc).

FDI helps fuel 2018 forecasts
Đông Nam Á trở thành điểm đến đầu tư tốt nhất năm 2019 - Nguồn: Financeweek


39% thành viên diễn đàn được khảo sát cho rằng Đông Nam Á sẽ đem lại lợi tức đầu tư cao nhất trong năm nay, tiếp theo là Trung Quốc với 35% và Mỹ là 16%.

Những tiềm năng của khu vực Đông Nam Á đã kéo lượng vốn đầu tư trực tiếp FDI vào đây tăng vọt trong thời gian gần đây, chạm mức kỷ lục 137 tỷ USD năm 2017. Trong đó, 3 nước Việt Nam, Indonesia và Singapore chiếm hơn 70% lượng vốn FDI vào khu vực.

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2018

Việt Nam - Xu hướng thực phẩm hữu cơ đang tăng dần

Những quan ngại về vấn đề an toàn thực phẩm và nhu cầu tiếp cận đa dạng chủng loại sản phẩm là 2 động lực chính khiến thị trường thực phẩm hữu cơ phát triển nhanh trên thế giới. Tuy nhiên trên thực tế nông nghiệp hữu cơ chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ cho nhu cầu an ninh lương thực và chỉ phục vụ một nhóm khách hàng giàu có.

Theo bản báo cáo Xu hướng thực phẩm hữu cơ toàn cầu của DRED Media Relations năm 2017, ba thị trường hữu cơ phát triển lớn nhất trên thế giới bao gồm Mỹ (47%), EU (36%), Trung Quốc (6%), Canada (4%) và Thụy Điển (3%). Thị trường chủ yếu dành cho những người từ 38 tuổi trở lên và có thu nhập cao. Trung bình mỗi năm mỗi người dân Mỹ chi khoảng 111 euro cho các sản phẩm hữu cơ còn người dân Thụy Sỹ chi khoảng 300 euro/năm. (FiBL-AMI survey 2017).

Nguồn số liệu thống kê ngày 14/2/2018 cho thấy Bắc Mỹ và Châu Âu hiện chiếm tới 90% giá trị bán lẻ hữu cơ toàn cầu


Tại Việt Nam, xu hướng thực phẩm hữu cơ cũng tăng dần trong vòng 5 năm trở lại đây. Tính đến cuối năm 2017, Việt Nam có 33/63 tỉnh thành phố phát triển mô hình nông nghiệp hữu cơ đạt diện tích khoảng 76.6 nghìn ha, tăng 3.6 lần so với năm 2010.

Theo DRED Media Relations, động lực khiến thị trường tại Việt Nam tăng nhanh bởi thu nhập và mức sống của người dân đang dần được cải thiện, các tầng lớp trung lưu và thượng lưu mong muốn có những sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm và tốt cho sức khoẻ. Ngoài ra ảnh hưởng của văn hóa phương tây và xu hướng dùng đồ hữu cơ nhập khẩu được thị trường đón nhận, đã làm tiền đề cho phương pháp canh tác hữu cơ trong nông nghiệp phát triển.

Số liệu cho thấy Hoa Kỳ là thị trường hữu cơ quan trọng nhất trên toàn thế giới


Trong khi đó hầu hết các sản phẩm và thương hiệu hữu cơ trên thị trường hiện nay đều thuộc phân khúc giá thành cao. Do đó, thu nhập càng cao thì càng nhiều khả năng lựa chọn sản phẩm hữu cơ. Tại Việt Nam, giá các sản phẩm hữu cơ cao gấp 4-5 lần so với các sản phẩm nông nghiệp truyền thống.

Lý giải cho giá thành cao, TS Nguyễn Đăng Nghĩa - Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn nông nghiệp Nhiệt đới, nhận định, khi triển khai sản xuất NNHC ở Việt Nam tìm được đất & xử lý đất chuẩn hữu cơ là khoản đầu tư lớn mà nhà sản xuất phải đối mặt. Nguyên nhân là việc lạm dụng phân bón, sử dụng thuốc BVTV không đúng cách… đã khiến hầu hết đất tại Việt Nam hiện tại có phản ứng chua (pH <6.0), nghèo dinh dưỡng đa lượng, trung lượng, đặc biệt là các chất dễ tiêu…Do đó, việc tìm được một diện tích đất trồng trọt có đủ tiêu chuẩn sạch để thỏa mãn các yêu cầu và quy chuẩn của IFOAM, USDA và các tổ chức sản xuất hữu cơ khác vô cùng gian nan và tốn kém.

Các rào cản cho thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam


Theo ông Lê Thành Viện, Viện trưởng Viện kinh tế Nông nghiệp Hữu cơ, thị trường NNHC tại Việt Nam hiện đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Kể đến đầu tiên đó là chưa có hệ thống tiêu chuẩn chứng nhận và đánh giá rõ ràng; chi phí đầu tư và giá thành cao; khó khăn trong việc mở rộng chuỗi cung ứng nuôi trồng - sản xuất và phân phối; tài nguyên đất hạn chế về số lượng và chất lượng. Ngoài ra các yếu tố về trình độ lao động kỹ thuật canh tác hữu cơ thấp và hạn chế trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp hữu cơ cũng tạo ra những trở ngại lớn.

Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp trên đầu người tại Việt Nam đang giảm dần: khoảng 0.1ha (Chỉ bằng 8.7% trung bình của thế giới). Ở các khu tập trung sản xuất nông nghiệp như Đồng bằng Sông Hồng chỉ có 400m2/người. Trong khi đó mức gia tăng dân số ở nông thôn không giảm nhiều như mong đợi, khiến cho bình quân đất canh tác trên đầu người ngày càng giảm mạnh.

Để đảm bảo an ninh lương thực, các nước có thể dựa vào 2 yếu tố là tăng diện tích và năng suất. Theo các chuyên gia của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, ông Nguyễn Văn Bộ và Viện Cây Lương thực & Thực phẩm, ông Ngô Doãn Đảm, Việt nam hiện chỉ còn có một con đường duy nhất là tăng năng suất. Bởi quỹ đất hiện chưa sử dụng có thể tiếp tục khai thác ở nước ta còn không đáng kể. Trong khi đó biến đổi khí hậu có khả năng làm cho diện tích đất có thể sử dụng có nguy cơ bị thu hẹp. Xu thế này cũng là xu thế của các nước đang phát triển trên thế giới, tức là đóng góp của yếu tố diện tích, kể cả tăng vụ đã ngày càng chiếm tỉ trọng thấp hơn.

Giải pháp tồn tại song song giữa hai hình thức canh tác nông nghiệp


Theo TS Nguyễn Văn Bộ - Nguyên Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, để phát triển nông nghiệp ở Việt Nam thành công, đảm bảo an ninh lương thực cần thống nhất các quan điểm rằng, phải phát triển nông nghiệp cần hài hòa, bền vững, trong đó sản xuất theo hướng thâm canh, hóa học hóa vẫn là chủ yếu.

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Ngọc Hưng cho rằng hội nhập nền kinh tế có thể khiến tăng sự phụ thuộc của nền nông nghiệp (trong đó có nền nông nghiệp hữu cơ) vào thị trường bên ngoài và nền nông nghiệp có thể dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế.

Ở các quốc gia có nền nông nghiệp tiên tiến như Mỹ, Đức, Canada… từ lâu đã tồn tại đồng thời nhiều mô hình canh tác nông nghiệp, gồm canh tác theo kiểu truyền thống, canh tác hữu cơ, trồng cây đầu dòng và các giống biến đổi gene, cây trồng công nghệ sinh học.

Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) gọi đây là sự tồn tại đồng thời (co-existence), là phương thức canh tác cùng lúc các loại cây trồng khác nhau như trên tại các khu vực tiếp giáp nhau, phù hợp với sở thích của người tiêu dùng và lựa chọn của nông dân.

Mô hình tồn tại đồng thời nhiều phương thức canh tác nông nghiệp đã được thực hiện thành công tại nhiều nước trên thế giới. Tại Châu Âu mô hình tồn tại đồng thời cây ngô hữu cơ, truyền thống và biến đổi gen đã được ứng dụng thành công ở Tây Ban Nha, Anh hay ở Ý... Năm 2014, Tây Ban Nha đã canh tác hơn 131.500 ha cây ngô Bt, chiếm 92% diện tích ngô Bt tại EU.

Bên cạnh diện tích rộng lớn trồng ngô biến đổi gen, các cánh đồng lân cận đồng thời trồng ngô Bt hoặc ngô thường để làm thức ăn chăn nuôi.

TS Vũ Trọng Khải – Chuyên gia độc lập về Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cũng nhận định, nền nông nghiệp truyền thống vốn dĩ là nông nghiệp hữu cơ. Trải qua chiều dài lịch sử phát triển, dân số ngày một gia tăng, bình quân diện tích đất nông nghiệp theo đầu người của nước ta lại vào loại thấp nhất thế giới, cộng với kỹ thuật sản xuất lạc hậu… nên nền nông nghiệp hữu cơ cho năng suất thấp đã không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của con người.

Việc thừa hưởng những thành tựu khoa học của thế giới và trong nước về giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật sản xuất sử dụng hóa chất, sử dụng máy móc trong cung cấp dinh dưỡng và bảo vệ cây trồng, vật nuôi... đã giúp nền nông nghiệp Việt Nam về cơ bản đã trở thành một nền nông nghiệp hóa học hóa và cơ giới hóa một số khâu sản xuất, thay thế nền nông nghiệp hữu cơ truyền thống. Đặc biệt, sử dụng rộng rãi các giống cây trồng và vật nuôi mới cho năng suất cao… đã giúp đáp ứng đủ số lượng cho nhu cầu tiêu dùng của con người cũng như xuất khẩu.

Tuy nhiên, về mặt tiêu cực, nông nghiệp Việt Nam hiện tồn tại nhiều sản phẩm không an toàn cho người sử dụng, đồng thời, nền nông nghiệp hóa học hóa góp phần trong việc làm biến đổi khí hậu toàn cầu, ô nhiễm môi trường sinh thái ở một số vùng…

Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam đang tổ chức thực hành nông nghiệp tốt (GAP) theo VietGAP hay GlobalGAP và quản lý theo chuỗi giá trị ngành hàng nông sản, dựa trên sự liên kết giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp.

Tuy nhiên, theo TS Khải, dù có thực hiện phổ biến GlobalGAP, nền nông nghiệp vẫn được phép sử dụng hóa chất theo những tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt. Việc ứng dụng công nghệ cao trong toàn bộ nền nông nghiệp là giải pháp hữu hiệu để phát triển nền nông nghiệp vừa đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm vừa cung cấp đủ số lượng cho nhu cầu tiêu dùng của người dân, bảo vệ môi trường sinh thái đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế, gia tăng thu nhập cho người lao động nông nghiệp.

Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 1/2018

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 1 năm 2018 ước đạt 3,09 tỷ USD, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm 2017.

Theo đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 1,68 tỷ USD, tăng 34,1%; thuỷ sản ước đạt 560 triệu USD, tăng 15,6%; các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 745 triệu USD, tăng 18,5%.

Trong tháng đầu năm này, khối lượng gạo xuất khẩu ước đạt 524.000 tấn với giá trị đạt 249 triệu USD, tăng 56,5% về khối lượng và tăng 74,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2017, giá gạo xuất khẩu bình quân đạt 451,9 USD/tấn, tăng 0,7% so với năm 2016.

Xuất khẩu cà phê ước đạt 173.000 tấn với giá trị đạt 338 triệu USD, tăng 24% về khối lượng và tăng 7% về giá trị.

Mặt hàng xuất khẩu tăng mạnh nhất là cao su, ước tính khối lượng xuất khẩu cao su đạt 181.000 tấn với giá trị đạt 204 triệu USD, tăng 94,5% về khối lượng và tăng 14% về giá trị. Tiếp tục tăng mạnh cả về giá trị và sản lượng, hạt điều xuất khẩu đạt 25.000 tấn với giá trị 256 triệu USD, tăng 39,9% về khối lượng và tăng 56,5% về giá trị so với cũng kỳ năm 2017.

Rau quả vẫn là mặt hàng có sự tăng trưởng khá tốt. Giá trị xuất khẩu hàng rau quả tháng 1 ước đạt 321 triệu USD, tăng gần 37% so với cùng kỳ năm 2017. Năm ngoái, Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của hàng rau quả Việt Nam.

Tiếp nối sự đi xuống về giá xuất khẩu của năm 2017, trong tháng đầu năm này, khối lượng tiêu xuất khẩu tuy có tăng mạnh 59%, ước đạt 13.000 tấn, nhưng giá trị lại giảm gần 9%, đạt 56 triệu USD.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 1 ước đạt 2,78 tỷ USD, tăng 48,1% so với cùng kỳ năm.

Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

Để bán hàng đa kênh hữu hiệu

Phương thức bán lẻ đa kênh được nhìn nhận như là một cơ hội để các nhà bán lẻ bảo đảm sự thành công của họ trong tương lai. Tuy nhiên, việc đầu tư cho các chiến lược bán lẻ đa kênh có thể là một sự thách thức lớn đối với nhiều công ty vì họ thường không biết bắt đầu từ đâu.

Ba bước để bán hàng đa kênh hữu hiệu - Ảnh: http://atom.dred.vn


DRED Atom, công ty cung cấp giải pháp phần mềm quản lý quan hệ khách hàng, có trụ sở tại Việt Nam đề xuất ba bước đi để giúp nhà bán lẻ truyền thống thiết lập hệ thống bán lẻ đa kênh có hiệu quả.

Kết nối kênh giao dịch


Khi thành lập một chiến lược bán lẻ đa kênh, nhà bán lẻ cần nghĩ đến tất cả các kênh giao dịch đang có hiện nay. Bên cạnh các cửa hàng thực tế đã có sẵn, nhà bán lẻ phải nghĩ đến các kênh giao dịch thông qua nền tảng web, ứng dụng di động, mạng xã hội...

Nhà bán lẻ phải bảo đảm rằng tất cả các nội dung như chủng loại, giá cả sản phẩm phải thống nhất ở tất cả các kênh. Chẳng hạn, khi một mặt hàng được khuyến mãi giảm giá 50% tại cửa hàng thực tế, nó cũng phải được giảm giá tương tự ở tất cả các kênh trực tuyến (online) của nhà bán lẻ.

Khi một mặt hàng đã bán hết ở một kênh thì các kênh khác cũng phải thể hiện thông tin này. Bất kỳ sự mâu thuẫn nào về thông tin cũng có thể khiến người tiêu dùng mất niềm tin, vậy nên, kết nối thông tin ở tất cả các kênh giao dịch có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược bán lẻ đa kênh.

Đồng nhất về đặc điểm nhận diện


Chiến lược bán lẻ đa kênh chỉ có hiệu quả khi có các đặc điểm nhận diện đồng nhất. Cách thức quảng bá sản phẩm, cách bài trí, hình ảnh và phông chữ ở các kênh giao dịch phải khớp với nhau để mang lại diện mạo và cảm giác nhất quán xuyên suốt các kênh. Dù khách hàng mua sản phẩm ở kênh online hay offline, họ phải ngay lập tức nhận ra phong cách thương hiệu của nhà bán lẻ.

Cá nhân hóa sự trải nghiệm


Hoạt động phân tích dữ liệu khách hàng đang ngày càng trở nên tinh tế hơn. Các phần mềm quản lý quan hệ khách hàng giúp nhà bán lẻ nắm vững thói quen mua sắm của khách hàng, có thể giám sát khách hàng ở tất cả các kênh giao dịch, thấy được những sản phẩm mà họ xem và mua... Tất cả các dữ liệu này có thể được sử dụng để tạo ra sự trải nghiệm mua sắm đa kênh được cá nhân hóa cho mỗi khách hàng. Chẳng hạn, nhà bán lẻ hiển thị trên kênh trực tuyến những sản phẩm mà khách hàng đã mua trước đó hoặc các sản phẩm có liên quan có thể khiến họ quan tâm.

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2014

Dịch vụ phát triển thị trường sẽ tăng trưởng mạnh

Năm 2013, khối dịch vụ phát triển thị trường toàn cầu đạt mức 2,7 ngàn tỷ USD và dự báo sẽ tăng lên 3,8 ngàn tỷ trong năm 2018.

Lợi ích của dịch vụ phát triển thị trường


Dịch vụ phát triển thị trường (DVPTTT) không chỉ giúp các doanh nghiệp (DN) giảm chi phí mà còn cải thiện doanh số và tăng thị phần. Với việc phát triển theo hướng số hóa, DVPTTT toàn cầu sẽ tăng trưởng mạnh trong thời gian tới.

Công ty Tư vấn Chiến lược Roland Berger (RBSC) và Tập đoàn DKSH vừa công bố bản báo cáo nghiên cứu DVPTTT toàn cầu lần thứ tư. Là một mô hình mới trong lĩnh vực cung ứng, DVPTTT giúp các công ty tiếp cận khách hàng ở những thị trường mới và hỗ trợ tiếp thị, bán hàng, phân phối, kho vận và dịch vụ hậu mãi.

Những năm gần đây, ngành DVPTTT thu hút sự chú ý của các công ty đa quốc gia cũng như các công ty vừa và nhỏ tại các nước vì không những giúp giảm được chi phí đưa sản phẩm đến thị trường, mà còn giúp cải thiện doanh số và tăng thị phần nhiều hơn hẳn so với cách tự tiếp cận thị trường.

Nhiều nhà sản xuất hàng tiêu dùng, dược phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe, hóa chất đặc biệt và máy móc kỹ thuật đang sử dụng dịch vụ này để thâm nhập thị trường mới hoặc mở rộng những thị trường hiện hữu và hạn chế rủi ro.

Nghiên cứu cho thấy, ngành công nghiệp DVPTTT đang tăng trưởng mạnh và sẽ tiếp tục tăng trưởng trong thời gian tới. Năm 2013, khối DVPTTT toàn cầu đạt mức 2,7 ngàn tỷ USD và dự báo sẽ tăng lên 3,8 ngàn tỷ trong năm 2018. Với mức tăng trưởng trung bình hằng năm là 7,4%, DVPTTT chiếm 1% thị trường tiêu thụ toàn cầu.

Không còn bị xem là "sân sau của các nước phương Tây", khu vực châu Á - Thái Bình Dương đạt quy mô thị trường 691 tỷ USD vào năm 2013 và vượt qua châu Âu để trở thành thị trường lớn nhất của DVPTTT. Châu Âu và Bắc Mỹ tiếp theo sau đó với giá trị lần lượt là 649 USD với 529 USD.

Trong 5 năm vừa qua, 10 công ty của thị trường mới nổi châu Á đã tăng trưởng hằng năm 22% - nhanh hơn gần bốn lần so với tốc độ 6% của mười công ty đã phát triển hàng đầu trên toàn cầu. Cùng lúc đó, nhiều công ty mới nổi đang nhận ra rằng họ có thể thành công hơn nữa trong việc mở rộng vào các thị trường mới khi bắt tay với nhà cung cấp DVPTTT.

Việt Nam là nền kinh tế mới nổi, nơi DVPTTT với giá trị cộng thêm cao sẽ có cơ hội phát triển mạnh trong tương lai gần. Điều này tạo ra cơ hội cho những nhà cung cấp DVPTTT như DKSH đẩy mạnh cung cấp các gói dịch vụ toàn diện cho các đối tác, xây dựng chuỗi giá trị từ nghiên cứu và phân tích thị trường, tiếp thị, bán hàng, hậu cần cho đến dịch vụ hậu mãi. Tại Việt Nam, DVPTTT giúp các DN trong và ngoài nước củng cố năng lực khi muốn mở rộng thị trường hiện hữu hay thị trường mới.

Với kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm sâu sắc về thị trường nội địa trong việc triển khai toàn bộ chuỗi giá trị từ nghiên cứu thị trường, tiếp thị, bán hàng, phân phối, kho bãi, vận chuyển và dịch vụ hậu mãi, các công ty có thể tập trung năng lực và nguồn lực vào việc sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao khi được các công ty DVPTTT hỗ trợ.

Hiện nay, số hóa đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong danh sách ưu tiên của các DN. Ba xu hướng số hóa, gồm: thương mại di động, trí tuệ DN và cơ sở hạ tầng thông minh sẽ tác động vào các công ty trong vòng 5 năm tới. Số hóa không những làm thay đổi nền tảng kinh doanh mà còn tạo ra các cơ hội kinh doanh mới và mở ra khả năng cho sự tăng trưởng hiệu quả.

Những xu hướng này sẽ tạo ảnh hưởng đến cách thức giao dịch kinh doanh và cách mà các công ty tương tác với các nhà cung cấp, khách hàng. Cơ hội của các công ty phần lớn đến từ hình thức giao tiếp, tương tác và các kênh bán hàng mới, tiếp cận và phân tích dữ liệu thị trường cũng như các mô hình tiên tiến để làm mới lại quy trình bán hàng.

Số hóa được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh mẽ tại các thị trường mới nổi và đặc biệt là ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Theo Euromonitor, chi tiêu dành cho bán lẻ trực tuyến sẽ đạt 500 tỷ USD vào năm 2018, chiếm khoảng 8% thị trường bán lẻ toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Tại các thị trường đã và đang phát triển, nhiều công ty nhận ra rằng để kinh doanh thành công đòi hỏi sự chủ động phát triển số hóa để thích ứng với sự thay đổi thói quen mua sắm.

Do các công ty thường thiếu nguồn lực và khả năng cần thiết để bắt đầu việc số hóa qua mô hình omni (Omni-Channel Retailing - tiếp thị và bán lẻ trong 1), nên chuyển sang các đối tác có năng lực, kinh nghiệm và khả năng trong việc cung cấp các DVPTTT tích hợp.

Các nhà cung cấp DVPTTT là lựa chọn của các DN khi hợp cả hai hình thức truyền thống và trực tuyến. Các nhà cung cấp DVPTTT liên khu vực đang có vị thế tối ưu để thúc đẩy phát triển thị trường theo mô hình omni.

Với sự hiện diện, kiến thức chuyên môn và am hiểu thị trường địa phương, họ có thể mang đến cho đối tác những dịch vụ cao cấp đi kèm với chuỗi giá trị và kết hợp các dịch vụ trực truyến cùng truyền thống để mở rộng và phát triển thị trường.

"Nắm bắt cơ hội, kiến thức chuyên môn của các nhà cung cấp DVPTTT ngày càng cần thiết cho các công ty muốn mở rộng thị trường kỹ thuật số. DVPTTT đang dần trở nên phổ biến vì nó giúp các công ty tiếp cận mô hình omni tích hợp và mang đến trải nghiệm ổn định cho khách hàng qua các kênh truyền thống và trực tuyến", ông Matthias Hanke, Giám đốc Điều hành Công ty RBSC Thụy Sĩ chia sẻ.

Theo DRED PR